Một quá trình hoàn thiện không thể thiếu ở công đoạn sau in đối với một số sản phẩm các tờ hướng dẫn nhiều trang, sách, tạp chí, brochure, catalogue…. là công đoạn gấp. Ở bài viết này, Prima.vn đề cập đến bạn đọc các đặc điểm chung của công đoạn gấp và nguyên lý tạo vạch gấp ở công đoạn này.
Các đặc điểm chung của công đoạn gấp
Định nghĩa
Gấp là công đoạn bẻ cong giấy cuộn hoặc tờ in thành một đường nếp bằng áp lực, đường gấp này có thể được cấn trước hoặc không cấn trước. Vị trí nếp gấp được xác định dựa trên những yêu cầu về kích thước của sản phẩm hay trên sơ đồ gấp.
Trong đóng sách đường gấp (nếp gấp) được gọi bằng thuật ngữ vạch gấp.
Trong bao bì hộp, vạch gấp thường được cấn trước.
Các thông số để xác định một vạch gấp
– Phương của vạch gấp: được xác định song song với cạnh chuẩn nào của tờ giấy (nếu là vạch gấp đầu tiên) hoặc song song hay vuông góc với vạch gấp trước đó (nếu là các vạch gấp tiếp theo).
– Vị trí: Khoảng cách từ mép giấy đến vị trí cần gấp, khoảng cách này cho phép ta xác định cỡ gấp.
– Hướng gấp: gấp vào trong hay ra ngoài.
Nguyên liệu, bán thành phẩm đầu vào và sản phẩm đầu ra của công đoạn gấp:
Đầu vào:
- Là giấy cuộn hoặc tờ gấp (bookbinding sheet) đối với gấp tay sách trong đóng sách.
- Là mảnh bế hộp khi gấp dán hộp trong thành phẩm bao bì hộp.
- Là cuộn màng khi gấp tạo tui trong thành phẩm bao bì mềm.
Sản phẩm đầu ra:
- Các tay gấp đối với gấp trong đóng sách (thường được gấp bởi máy gấp tờ rời hoặc máy in cuộn)
- Các dạng tờ gấp quảng cáo, tờ gấp cho biểu đồ, bản đồ, tranh ảnh minh họa, các tờ dán thêm vào sách báo. (Thường được gấp bởi máy gấp tờ rời, gấp thủ công).
- Các dạng hộp đươc gấp dán (hông đáy). Thường được gấp trên máy gấp dán hộp.
Các nguyên lý tạo vạch gấp và ứng dụng của từng nguyên lý trong gia công thành phẩm
Nguyên lý gấp dao
Tờ in được chuyển dịch theo bàn số 4 tới dưới lưỡi dao số 1 thì dừng lại đúng vị trí nhờ tay kê số 3. Lưỡi dao số 1 hạ xuống bẻ cong tờ in và đưa tờ in vào giữa hai trục gấp số 2 (ổ trục bên trái là cố định). Hai cặp trục gấp quay ngược chiều nhau bắt lấy đường cong và tao thành vạch gấp. Dao chỉ chuyển động theo chiều thẳng đứng chứ không chuyển động theo chiều ngang. Khi lấy cỡ gấp, người ta chỉnh tay kê. Khoảng cách từ cạnh chuẩn đến vị trí vạch gấp trên tờ in chính là cỡ gấp và bằng khoảng cách từ tay kê đến dao gấp. Khe hở giữa cặp lô 2 phải được canh chỉnh thích hợp với độ dày lớp giấy đi qua nó.
Hình 1: Nguyên lý gấp dao
Hình 2: Dao gấp trên thiết bị gấp
Nguyên lý gấp túi
Theo nguyên lý này, tờ in được vận chuyển bằng những trục lăn trên bàn vận chuyển rồi đưa vào giữa hai trục gấp số 2 và số 3. Hai trục này quay ngược chiều nhau, đẩy tờ in vào túi số 1. Khi mép tờ in chạm vào cỡ tay kê só 5 thì dừng lại, trong khi đó cặp trục số2 và 3 vẫn quay liên tục làm tờ in bị uốn cong ở giữa. Đường cong đó lớn dần cho đến khi hai truc 3 và 6 bắt lấy đường cong đó và tạo thành một vạch gấp. Vạch gấp được ép bằng lò xo số 7. Khi lấy cỡ gấp người ta chỉnh thanh cặn 5. Khoảng cách từ cạnh chuẩn đến vị trí vạch gấp trên tờ in chính là cỡ gấp và bằng khoảng cách từ thanh chặn đến lô gấp. Khe hở giữa hai cặp lô 2, 3 và 3, 6 phải được canh chỉnh thích hợp với độ dày lớp giấy đi qua nó.
Hình 3: Nguyên lý gấp túi
Hình 4: Thiết bị gấp túi
Trên đây là hai nguyên lý gấp thường gặp nhất trong in ấn ở công đoạn sau in, để hình dung rõ hơn công đoạn này, bạn đọc xem qua mô phỏng đơn vị gấp ở video bên dưới.
Nguồn: Giáo trình Công nghệ gia công sau in – Biên soạn: Nguyễn Thị Lại Giang – 2006



