Prima.vn - Cổng thông tin điện tử ngành in và bao bì Việt Nam
Trang chủ » VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP IN TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN (Phần 2)

Chia sẻ

TIN TỨC

VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP IN TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN (Phần 2)

VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP IN TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN (Phần 2)

3. NGÀNH IN TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC CỤM NGÀNH KHÁC.

3.1 Mối quan hệ với các cụm ngành khác.

Cụm ngành mô tả quá trình đo lường một cách có hệ thống sự hiện diện, quy mô và năng lực hoạt động của các cụm ngành trên khắp các địa phương. Theo Porter, có sự khác biệt giữa các cụm ngành thương mại và cụm ngành nội địa. Các cụm ngành thương mại bao gồm các ngành tập trung trong một vài khu vực địa lý nhất định và có giao dịch thương mại với các khu vực và quốc gia khác. Các cụm ngành nội địa bao gồm các ngành có mặt ở hầu hết (nếu không phải tất cả) các khu vực địa lý và chủ yếu giao dịch tại chỗ. Trong khi các cụm ngành nội địa hầu như chỉ phục vụ thị trường nội địa và ít tương tác trên phạm vi toàn cầu hoặc với các khu vực khác, thì ngược lại, các cụm ngành thương mại phục vụ thị trường trong nước và toàn cầu, do đó, phải cạnh tranh với các quốc gia và khu vực khác. Các cụm ngành thương mại có xu hướng đạt năng suất cao hơn so với các cụm ngành nội địa vì phải cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, do đó có xu hướng tiệm cận với năng suất và các tiêu chuẩn kỹ thuật toàn cầu.

Ngành in nếu không có chiến lược phát triển phù hợp sẽ bị co cụm lại thành cụm ngành nội địa với các yêu cầu kỹ thuật trung bình và chủ yếu phục vụ nhu cầu nội địa vốn đã bão hoà và cạnh tranh gay gắt trong khi mở toang cánh cửa cụm ngành thương mại cho các công ty in nước ngoài vốn đã có nhiều ưu thế tại thị trường tại Việt Nam.

Hình 3.1. Ngành In và mối quan hệ với các cụm ngành theo phân loại của Hoa kỳ.

Theo hình 3.1, ta có thể thấy ngành in có mối liên hệ mật thiết với các ngành dệt may, da giày, giấy – bao bì và được xem là ngành hỗ trợ trực tiếp cho dịch vụ kinh doanh, giáo dục, tài chánh…

Tài liệu của ngân hàng thế giới áp dụng định nghĩa cụm ngành chuẩn của Hoa Kỳ cho các ngành kinh tế vào Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam (VSIC), qua đó phân bổ toàn bộ các ngành kinh tế Việt Nam vào 51 cụm ngành thương mại và 16 cụm ngành nội địa.

 Hình 3.2: 51 cụm ngành thương mại và 16 cụm ngành nội địa của các ngành kinh tế Việt Nam

Các cụm ngành khoanh màu đỏ là những cụm ngành được xác định là các cụm ngành chiến lược dựa trên kết quả hoạt động về thương mại, lợi thế so sánh và ưu tiên của chính phủ (xem thêm Phạm và cộng sự, 2019). Các cụm ngành được lựa chọn này đều là các cụm ngành thương mại, có hàng hóa và dịch vụ hầu hết được xuất khẩu sang các quốc gia khác.

Ngành in chưa được coi là ngành chiến lược mặc dù GDP trên đầu người và vai trò rất quan trọng như một ngành công nghiệp phụ trợ đã được xác định (2).

Theo tài liệu của ngân hàng thế giới và ban kinh tế trung ương năm 2022, dữ liệu cho các phân tích cơ bản được thu thập từ các cuộc điều tra chọn mẫu doanh nghiệp do Tổng cục Thống kê tiến hành hàng năm đã bỏ sót nhiều hộ kinh doanh cá thể ngành In và bao bì mà theo phỏng đoán chủ quan của chúng tôi có thể chiếm từ 10-15% doanh thu của ngành In Việt Nam.

 

3.2 Vị trí của ngành In trong các cụm ngành thương mại Việt Nam

Hình 3.3: Vị trí của ngành In trong các cụm ngành thương mại Việt Nam xét theo số lượng lao động trong ngành

Lao động trong các cụm ngành thương mại tập trung ở một vài cụm ngành. Hình 3.3 xếp hạng các cụm ngành thương mại theo quy mô lao động năm 2019. Các cụm ngành màu đỏ được xác định là các ngành công nghiệp chiến lược quốc gia (xem thêm Phạm và các cộng sự, 2019), chiếm hơn 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2019, năm cụm ngành thương mại đứng đầu về lao động theo thứ tự giảm dần là: (1) may mặc; (2) phân phối và thương mại điện tử; (3) giày dép; (4) sản phẩm và dịch vụ xây dựng; (5) các dịch vụ kinh doanh. Năm cụm ngành này chiếm 45,1% tổng số việc làm của các cụm ngành thương mại, và đại diện cho cả hàng hoá và dịch vụ thương mại.

Ngành dịch vụ in được xếp thứ 29 với gần 90.000 lao động, nếu xem ngành in bao gồm luôn ngành bao bì và giấy thì quy mô lao động lên đến 226.735 người và xếp ở vị trí thứ 17 sau cụm ngành Du lịch – khách sạn. Ngành in chưa được đánh giá là thế mạnh của Việt Nam, điều này phản ánh đúng thực tế đang diễn ra, khi mà số lượng doanh nghiệp in đủ sức xuất khẩu ra thị trường thế giới còn quá ít trong khi thị trường nội địa đang bị gặm nhấm dần bởi các doanh nghiệp FDI và chúng ta còn chưa có một chính sách cụ thể để phát triển ngành In.

 

 3.3 Các số liệu chi tiết về Ngành công nghiệp in Việt Nam (số liệu năm 2021)

3.3.1. Số lượng, phân bố, phân cấp, mô hình các cơ sở  in:

Hiện cả nước có trên 25.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động in[1], trong đó chỉ có 2.073 cơ sở in được cơ quan quản lý nhà nước cấp giấy phép hoạt động và được phân bố, phân cấp như sau:

– Phân bố theo vùng: Thành  phố Hà Nội: 270 cơ sở in, thành phố Hồ Chí Minh: 572 cơ sở, Tây Bắc Bộ: 46 cơ sở, Đông Bắc Bộ: 127 cơ sở, Đồng Bằng sông Hồng (không bao gồm Hà Nội): 205 cơ sở, Bắc Trung Bộ: 105 cơ sở, Nam Trung Bộ: 118 cơ sở, Tây Nguyên: 88 cơ sở, Đông Nam Bộ (không bao gồm TP.HCM): 262 cơ sở in (trong đó Bình Dương là 184 cơ sở in), Đồng bằng sông Cửu Long: 280 cơ sở in.

– Phân cấp Trung ương và địa phương: 135 cơ sở in Trung ương (6,5%) và 1938 cơ sở in ở địa phương (93,5%).

– Phân loại theo vốn đầu tư: Doanh nghiệp Việt Nam: 1.599 cơ sở (77,3%); Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: 285 cơ sở (13,7%); Doanh nghiệp liên kết Việt Nam – nước ngoài: 189 cơ sở (9,1%). 

– Phân loại theo mô hình hoạt động: Đơn vị sự nghiệp: 98 cơ sở (4,3%); Doanh nghiệp: 1.796 cơ sở (87%); Hộ kinh doanh: 179 cơ sở (8,7%)

– Phân loại theo cơ cấu sản phẩm: Đơn vị có in xuất bản phẩm và các sản phẩm khác: 963 cơ sở (45%); Đơn vị không in xuất bản phẩm (in bao bì, nhãn hàng): 975 cơ sở (55%).

3.3.2. Sản lượng, doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách

Doanh thu năm 2018 đạt 91,487 nghìn tỷ (tăng 5,3%); doanh thu năm 2019 đạt  96,976 nghìn tỷ năm 2019 (tăng 5,9%).

Lợi nhuận năm 2018 đạt 7.525 tỷ (tăng 11 %); lợi nhuận năm 2019 đạt 8.052 tỷ (tăng 10,7%).

Nộp ngân sách nhà nước năm 2018 đạt 2.203 tỷ (tăng 11,2%); nộp ngân sách năm 2019 đạt 2.313 tỷ (tăng 10,4%).

Năm 2019, sản lượng ngành in hiện nay vào khoảng 300 tỉ trang A4 tăng  5,4% so với năm 2018, đứng vị trí thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á.

– Tổng doanh thu toàn ngành in năm 2021, theo con số thống kê của Cục xuất bản, In và Phát hành là 85.460 tỷ đồng (khoảng 3,8 tỷ USD). Thực tế con số này còn cao hơn đáng kể dựa trên phân tích khối lượng nguyên liệu chủ yếu sử dụng trong ngành in nước ta. Theo số liệu của Hiệp hội giấy Việt Nam, năm 2021 có khoảng 4 triệu tấn được sử dụng trong ngành in. Như vậy doanh thu in trên giấy của Việt Nam đã đạt khoảng 90.000 tỷ đồng. Nếu tính thêm các nguyên vật liệu khác như in trên nhựa, kim loại và một số vật liệu khác thì tổng doanh thu của ngành in Việt Nam năm 2021 ít nhất cũng ở mức trên 110.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 5 tỷ USD. Còn theo con số của Heidelberg Nhà cung cấp thiết bị in lớn cho thế giới thì doanh thu của ngành công nghiệp in vào cỡ 6,7 tỷ USD. Dù có như vậy thì quy mô của ngành in Việt Nam cũng chỉ bằng gần 2/3 của Thái Lan, nơi có doanh thu ngành in đạt tới 10,4 tỷ USD. Mức tiêu thụ giấy của Việt Nam đã đạt 56kg/đầu người, bằng khoảng 80% so với Thái Lan và gần mức trung bình của thế giới. Trung Quốc trên 100kg/người, Mỹ và Nhật Bản ở mức trên 200kg/người.

Theo báo cáo của Hiệp hội in Việt Nam, mặc dù có một số nhà in nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu đã phải đóng cửa nhưng tổng số cơ sở in cả nước vẫn tăng. Theo số liệu của Cục xuất bản, In và Phát hành, năm 2021 số lượng nhà in công nghiệp cả nước đã tăng 4,1% so với năm trước, trong đó khu vực có tỷ lệ tăng cao nhất là Đồng bằng Bắc Bộ – 9,8%, Hà Nội tăng 8,6% và thành phố Hồ Chí Minh tăng 5,6% đưa tổng số nhà in cả nước lên trên 2.300 đơn vị. Theo cơ cấu sản phẩm thì các doanh nghiệp in tổng hợp, vừa in xuất bản phẩm vừa in các sản phẩm khác chiếm 51% các doanh nghiệp chuyên in bao bì, nhãn hàng chiếm 49% nhưng sản lượng của khối nhà in này lại chiếm trên 2/3 sản lượng toàn ngành, trong đó có khá nhiều doanh nghiệp bao bì có doanh thu từ vài trăm đến hàng ngàn tỷ đồng/ năm. Theo nguồn vốn đầu tư, doanh nghiệp có vốn đầu tư Việt Nam 100% chiếm 85,8% còn khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (328 doanh nghiệp) chiếm 14,2% nhưng sản lượng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới gần 40% do hầu hết các doanh nghiệp này đều có doanh thu lớn, từ vài trăm tỷ đến vài ngàn tỷ đồng /năm.

3.3.3. Cơ cấu sản phẩm in

Mặc dù có sự tụt giảm sâu về nhu cầu in báo, tạp chí và các loại hình văn hóa phẩm khác nhưng với sự tăng trưởng mạnh của ngành xuất bản trong 2 năm trở lại đây (đạt mức trên 10%/năm), in sách, báo, tạp chí duy trì sản lượng, giữ mức khoảng 30%.

In bao bì, nhãn hàng, in thương mại tăng trưởng mạnh và là khu vực có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong 10 năm qua, đạt trên 10%/năm. Đến hết năm 2019, sản lượng in bao bì, thương mại ước tính chiếm khoảng 70% tổng sản lượng toàn ngành.

3.3.4. Công nghệ in   

Với sự phát triển của công nghệ, hiện nay ngành in đã cơ bản chuyển sang công nghệ in hiện đại trong tất cả các công đoạn của sản xuất in. Quá trình chế bản cơ bản đã được số hóa 100 % với công nghệ CTP (Computer to Plate) cho in offset, ống đồng và in flexo. Quá trình in cũng được chú trọng đầu tư với các thiết bị in hiện đại với mức độ tự động hóa cao. Công đoạn gia công sau in mức độ tự động hóa hạn chế hơn do các doanh nghiệp tận dụng lợi thế giá nhân công thấp.

In offset vẫn là công nghệ in chủ đạo. In ống đồng và in flexo có sự phát triển nhanh ở in bao bì, nhãn mác. In kỹ thuật số phát triển nhanh với các thiết bị in khổ lớn, tốc độ cao, đáp ứng thị trường in thương mại và in sản phẩm cá nhân hóa.

Việc đầu tư, đổi mới trang thiết bị và công nghệ trong những năm qua, mặc dù có nhiều bất lợi về điều kiện sản xuất kinh doanh nhưng việc đầu tư cho phát triển của ngành in Việt Nam vẫn duy trì đều đặn. Thậm chí năm 2021, số lượng máy in nhập khẩu về Việt Nam vẫn tăng cao cả về số lượng và giá trị. Theo số liệu của phòng Quản lý in Cục xuất bản, In và Phát hành thì số lượng máy in công nghiệp như offset, Flexo, ông đồng là 994 chiếc, cao hơn năm trước 18% với tổng trị giá là 3.178 tỷ đồng, tương đương gần 140 triệu USD, trong đó máy mới chiếm 65%, phần lớn là máy in từ 4 màu trở lên (80%), nhiều máy có giá trị từ 1 triệu đến gần 20 triệu USD/máy. Còn theo số liệu của các đơn vị cung cấp máy in đã qua sử dụng thì các nhà in vẫn tiếp tục đầu tư bổ sung hoặc mở rộng sản xuất nhưng phần lớn là những máy in và thiết bị với giá trị từ 2 tỷ đồng trở xuống, chủ yếu cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam. Các loại máy in có giá trị lớn chủ yếu là đơn hàng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

3.4 Khả năng tạo việc làm của ngành In.

Xếp hạng các cụm ngành thương mại theo việc làm được tạo ra trong giai đoạn 2006 –2019 được trình bày trong Hình 3.4. Các cụm ngành màu đỏ là những ngành công nghiệp chiến lược quốc gia (Phạm và cộng sự, 2019). Năm cụm ngành thương mại tạo nhiều việc làm nhất trong giai đoạn 2006–2019, theo thứ tự giảm dần là: (1) may mặc; (2) phân phối và thương mại điện tử; (3) giày dép; (4) dịch vụ kinh doanh; (5) công nghệ thông tin và các thiết bị phân tích. Ngược lại, những cụm ngành mất việc làm nhiều nhất là: (1) nông nghiệp; (2) giao thông vận tải đường thuỷ; (3) khai thác than; (4) sản xuất và truyền tải điện; (5) khai thác phi kim loại. Ba cụm ngành tạo việc làm nhiều nhất cũng là những cụm ngành có quy mô lao động lớn nhất, trong khi cụm ngành công nghệ thông tin và thiết bị phân tích là cụm ngành mới nổi năng động nhất.

Ngành In xếp hạng thứ 29 trong danh sách các ngành tạo ra nhiều việc làm và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân bởi tính ổn định và không gian phát triển của ngành.

Hình 3.4: Các cụm ngành thương mại tạo nhiều việc làm nhất, 2006–2019

 

3.5. Xếp hạng các cụm ngành thương mại theo mức độ năng động

            Hình 3.5: Xếp hạng các cụm ngành thương mại theo mức độ năng động

Ngành dịch vụ in không được đánh giá cao về mức độ năng động, nếu có chỉ ở mức độ thấp lẫn vào trong ngành bao bì và giấy. Trên thực tế, sự phát triển của ngành in vẫn theo bề rộng với thị trường nội địa là chủ yếu chứ chưa đi vào chiều sâu trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế. Sự rủi ro của ngành in nằm ở mức độ gia tăng các doanh nghiệp vào lúc đầu khi lượng hàng hoá sản xuất tại Việt Nam tăng lên và sự rụt rè của các doanh nghiệp in nước ngoài, chính sự gia tăng theo tính cơ học đó sẽ làm thị trường nội địa trở nên hỗn loạn và sau đó là khuynh hướng giảm giá để cạnh tranh khi các doanh nghiệp in có vốn đầu tư nước ngoài chính thức vào thị trường Việt nam để phục vụ các đối tác toàn cầu của họ và xuất khẩu từ Việt Nam. Sự việc đã bắt đầu diễn ra từ 2 năm nay tại các tỉnh phía nam và TPHCM khi các doanh nghiệp nước ngoài đã có nhiều lựa chọn về nhà cung cấp và bắt đầu đưa ra các yêu cầu nghiêm ngặt hơn về chất lượng.

[1] Theo số liệu thống kê trên hệ thống ĐKKD của Bộ KHĐT (mã ngành 1811).

 

PGS.TS Ngô Anh Tuấn – Chủ tịch hội in TPHCM

 

(XEM LẠI PHẦN 1)                                                                                                    (XEM TIẾP PHẦN 3)

419 bình luận

Bình luận