Prima.vn - Cổng thông tin điện tử ngành in và bao bì Việt Nam
Trang chủ » VẬT LIỆU IN BẢO MẬT

Chia sẻ

BAO BÌ / CHẤT LƯỢNG / IN / SAU IN / TIN TỨC

VẬT LIỆU IN BẢO MẬT

VẬT LIỆU IN BẢO MẬT

ePrintPack

VẬT LIỆU IN BẢO MẬT

Các sản phẩm in bảo mật được chia thành những loại tổng quát như các loại tài liệu, bao bì, nhãn hàng và các loại thẻ. Vô số các mẫu mã, kỹ thuật và các đặc điểm có thể được chia thành 3 loại: loại cơ bản, trung cấp và kỹ thuật cao, tuỳ theo mức độ chống giả. Ở đây không phải phân chia theo chất lượng của từng loại mà như đã nói ở phần “Tiêu chuẩn lựa chọn các chi tiết in bảo mật” mà chỉ tóm gọn các chi tiết có liên quan trực tiếp đến sản phẩm bảo mật đó, bao hàm những rủi ro, trách nhiệm, thủ tục xác minh, lưu trữ, phân phối, hoàn trả vốn đầu tư, và các lưu ý khác.

Các loại tài liệu bảo mật chính.

Các loại tài liệu bảo mật thường gặp là các loại giấy tờ liên quan đến tài chính, các loại tài liệu để chứng minh, xác nhận, giấy uỷ quyền.

Các loại liên quan đến tài chính thường thuộc loại sản phẩm bảo mật kỹ thuật cao như tiền đến loại cơ bản như các phiếu mua hàng, tem hàng, biên nhận. Loại trung cấp gồm có thẻ ghi nợ, chi phiếu, giấy chứng nhận cổ phiếu, biên lai, phiếu bảo hành, hoá đơn, cùng với các loại vé sự kiện, vé đi đường, vé đỗ xe, tem thuế v.v… Nói chung, các loại giấy tờ được dùng để giao dịch, mua bán, trao đổi, chi trả dịch vụ bằng tài khoản hoặc bằng tiền mặt gọi là các tài liệu tài chính luôn là mục tiêu tấn công của bọn tội phạm.

Việc bảo an cho những loại tài liệu trên là hiển nhiên, nhưng mức độ bảo vệ sẽ đi đôi với các rủi ro trong xã hội và nền kinh tế, và mức độ tổn thất khi bọn tội phạm giả mạo thành công. Ngoài ra cũng có những lý do khác ảnh hưởng đến mức độ bảo an như ROI, những hạn chế trong việc sản xuất khối lượng lớn như việc an toàn khi lưu kho và phân phối.
Các loại giấy tờ chứng minh (IDs) thuộc loại cơ bản như giấy khai sinh, giấy giới thiệu, các loại giấy phép đến loại trung cấp, loại cao cấp như : Visa, Passport, giấy phép nhập cư, nhập quốc tịch, chứng minh, bằng lái. Những loại cơ bản thường là mồi ngon cho bọn làm giả và thay đổi thông tin.

Các giấy tờ như: giấy tốt nghiệp, bằng cấp, giấy phép hành nghề, giấy phép hoạt động, giấy uỷ quyền thường rơi vào tầm ngắm của bọn tội phạm trong thời gian gần đây. Chúng được dùng vào các mục đích tội ác chống lại con người và xã hội. Trước những loại bằng cấp, giấy phép hành nghề trước đây ít hoặc không dùng các biện pháp bảo vệ khỏi bọn làm giả thì bây giờ đã áp dụng mức độ cơ bản để bảo mật. Các loại khác như giấy ủy quyền, giấy phép hoạt động ít nhất phải được bảo vệ ở mức cơ bản.

Các quy trình in và thành phẩm.

Các sản phẩm bảo mật có thể được in bằng bất cứ các quy trình in sau đây:

  • In offset.
  • In lõm.
  • In ống đồng.
  • In typô.
  • In flexo.
  • In tam-pong.
  • In lụa.
  • Các phương pháp kỹ thuật số như in phun, in laser, khắc laser.
  • Các máy in nhãn tự động (hybrid/ theo ý khách hàng).
  • Các máy in bao bì.

SEPs ở mức cơ bản thường chỉ dùng một trong số các quy trình in kể trên. Trong nhiều trường hợp có thể yêu cầu quy trình in thích hợp. Ví dụ: in CD thường dùng phương pháp in tam-pong, phương pháp này cũng được dùng để in khi việc in ấn phụ thuộc vào hình dáng của sản phẩm như in các nhãn hiệu lên dụng cụ thể thao như banh golf. Đối với các dạng bao bì mềm, tem thuế thì sử dụng phương pháp in flexo. Khi SEPs đòi hỏi các quy trình phải khép kín thì tốt nhất là in offset hay ống đồng.

Các chức năng bảo mật nâng cao của vật liệu, thiết kế, kỹ thuật in

  • Giấy có chức năng bảo an như: khơng phản ứng với bức xạ UV, watermark (cylinder mold/fouriner), phản ứng với các tác nhân hóa học, chống lại các tác động cơ học (tẩy xố hay dng băng dính v.v…), có những sợi phát huỳnh quang, dấu hiệu (ẩn/hiện), loại watermark thấy được khi chiếu UV.
  • Mực có chức năng bảo mật như: pigment pht huỳnh quang, loại khơng thể thấy dưới nh sng ngy, loại có phản ứng với tia UV (low/down converter), loại phản ứng với tia IR, loại phản ứng với từ tính, loại phản ứng với kim loại, phản ứng với nhiệt, mực bleed-through.
  • Phủ lớp từ tính.
  • Cán màng có chỉ số khc xạ cao.
  • Các loại giấy, mực phát màu óng ánh.
  • Optically variable devices (ODVs).
  • Hologram (DOVDs).
  • Lá kim loại.
  • Tráng vecni từng phần.
  • Mực dẫn điện.
  • Sóng radio (RFID).
  • Các loại keo dính đặc biệt có các tính năng hạn chế tia UV và các đặc tính về nhiệt.
  • Những nét mảnh, Guilloches, Microtext.
  • Void pantograph, tạo Các gĩc tram thay đổi.
  • Các nét mảnh có độ dày thay đổi.
  • Ứng dụng của sinh học, AND.
  • Mã hóa/ giải mã.

SEPs thuộc mức trung cấp hay cao cấp thường kết hợp nhiều quy trình in và thành phẩm khác nhau để chống bọn tội phạm làm giả. Càng nhiều phương pháp được sử dụng thì bọn tội phạm càng khó làm giả. Các bước trong quá trình thành phẩm như bế cửa sổ rồi chèn vào một tấm màng trong, mỏng hoặc những bộ lọc đặc biệt để gấp lại và nhìn những hình ảnh ẩn, hiện trên mặt bên kia qua tấm màng hay bộ lọc để kiểm tra và xác minh. Sự đục lỗ, bế cửa sổ, chạm nổi, in mực nổi ép nhũ nóng là những vật cản hữu hiệu để chống giả. Ngoài ra chúng còn được yêu cầu thêm hình ảnh vào các thiết kế song song với việc thêm vào các đặc điểm bảo mật. Bảng bên dưới cung cấp bảng tham khảo các loại tài liệu và mức độ yêu cầu bảo mật của sản phẩm đó. Nó không được ứng dụng rộng rãi nhưng nó thích hợp với một số tài liệu dưới đây.

 

Mức độ rủi ro và các nguy cơ xảy ra cho nền kinh tế và xã hội, các ảnh hưởng lên cuộc sống và việc kinh doanh khi bọn tội phạm thay đổi nội dung các tài liệu bảo mật tuỳ thộc vào mức độ bảo mật.

 

Các sản phẩm bảo mật: bao bì, nhãn hàng, các loại thẻ.

Mặc dù các nhà sản xuất bao bì, nhãn hàng, và các loại thẻ dùng khá nhiều các phương pháp in, các kỹ thuật và các đặc điểm bảo mật, họ phải đáp ứng có hiệu quả đối với vô số các rủi ro, với vấn đề bảo mật trong quy trình sản xuất và các yêu cầu của khách hàng. Thông thường, các máy in nhãn hàng, bao bì bảo mật là các máy chuyên dụng, để đáp lại yêu cầu quảng cáo, phân phối sản phẩm cũng như các yêu cầu về bảo mật, bảo vệ thương hiệu, các sản phẩm trí tuệ. Ngoài ra các loại thẻ như chứng minh, thẻ giao dịch, những loại này khi bị làm giả hoặc thay đổi thông tin sẽ gây hậu quả rất nặng nề cho nền kinh tế và xã hội.

 

Để các nhà in bảo mật tạo ra các sản phẩm như mong đợi, họ phải sử dụng các thiết bị, phần mềm chuyên dụng chỉ để sản xuất các loại sản phẩm này. Ví dụ: không khó để tìm ra loại máy in đặc biệt cho phép thực hiện dây chuyền khép kín từ in ấn, đánh dấu đến khâu thành phẩm như ép nhũ, ghép hologram, dập nổi,… Nói cách khác, in và thành phẩm trong sản xuất sản phẩm bảo mật là rất đặc biệt nên nó đòi hỏi phải có các thiết bị, phần mềm chuyên dụng.

Trong nhiều trường hợp các loại bao bì, nhãn hàng cần được bảo vệ ở mức độ cao cấp khi việc làm giả sẽ gây hậu quả xấu cho xã hội. Tuy nhiên, các loại sản phẩm bình thường như bàn chải đánh răng, dao cạo, mỹ phẩm… bị làm giả. Những sản phẩm giả này được đóng gói, dán nhãn lại để bán bất hợp pháp với giá rẻ hơn. Loại này đòi hỏi bọn tội phạm phải có những kênh phân phối rộng lớn, hoặc tuỳ thuộc vào sự chênh lệch thuế giữa các tiểu bang, các quốc gia, dựa vào giá thuế xuất nhập khẩu, hoặc các nhãn hiệu tốt. Chúng hoạt động ở các thị trường chợ đen, rất khó để theo dõi và xử lý. Như vậy, các nhà in bảo mật làm việc dưới sự uỷ thác dựa vào các đặc điểm kỹ thuật cao như các loại mực có cấu trúc ADN hay những đặc điểm ẩn để đưa ra các bằng chứng để đối chiếu trước pháp luật.

GIẤY BẢO MẬT

Các loại giấy bảo mật có những đặc tính đặc biệt để phân biệt chúng với các loại giấy khác. Các đặc tính đó trong giấy hỗ trợ việc in bảo mật, chúng chứa đựng nhiều chi tiết bảo an ẩn, hiện và có giá trị pháp lý.

Những chi tiết thể hiện cũng như các chi tiết bảo mật thông thường khác có thể nhìn thấy bằng mắt thường như hình mờ, chỉ bảo mật. Các chi tiết ẩn thì phải nhờ đến các thiết bị hỗ trợ. Các chi tiết có giá trị pháp lý thường là các chi tiết ẩn đòi hỏi sự hiểu biết trước và các dụng cụ đặc biệt để xác minh.

Công nghệ làm giấy.

  • Bột giấy: Giấy được chế tạo từ những thớ thực vật, điển hình là các sợi bông có từ vải vụn, hoặc từ các loại thực vật thân mềm, các loại gỗ cứng, giòn. Hoà trộn các loại thớ, sợi này lại sẽ tạo ra các đặc tính cho giấy. Thớ các loại cây xanh thường dài, tạo nên độ bền cho giấy. Thớ các loại cứng, giòn thì ngắn, tạo nên tính uyển chuyển.
  • Bột vải: Được làm từ sợi bông, dùng sản xuất các loại giấy có chất lượng cao. Những sợi bông thì dài nên tạo ra độ bền cho giấy. Đây là loại dùng cho giấy bảo mật.
  • Bột giấy được xử lý cơ học: dùng sản xuất các loại giấy rẻ tiền như giấy báo. Loại này được làm bằng cách mài các khúc gỗ thành bột nhuyễn. Bằng cách đó sẽ phá huỷ các sợi gỗ và tạo thành bột có độ bền thấp nên cần được bổ sung thêm các loại bột qua xử lý hoá học. Giấy làm từ loại bột này hiếm khi được dùng trong in bảo mật.
  • Bột giấy được xử lý hóa học: bằng cách nấu những mẫu gỗ dưới áp xuất cao và nhiệt độ cao cùng các chất hoá học để loại bỏ chất nhựa và lignin có trong sợi gỗ. Các phân tử sẽ bị ô-xi hoá dưới nhiệt độ và ánh sáng đó là lý do giấy đổi màu và trở nên giòn. Quá trình xử lý bằng acid sulfite được dùng để tạo liên kết của giấy (làm từ các loại cây thân mềm) tạo ra các loại giấy bền, sáng. Quá trình xử lý bằng kiềm sulfate được dùng tạo ra các loại giấy đòi hỏi độ bền cao như giấy làm tiền, giấy gói hàng, bao bì.

Tinh luyện.

Sau khi đã qua các quá trình xử lý cơ học hay hoá học, các sợi cellulose sẽ được hoà trộn với nước. Sau đó, làm cho chúng mềm ra và đánh rối nhằm tăng diện tích tạo điều kiện cho chúng dễ dàng hút nước hay tạo phản ứng thủy hợp, giúp cải thiện độ chặt và độ bền của giấy (tăng khả năng liên kết). Tinh luyện với mức tối thiểu sẽ cho giây mịn, mềm; với mức tối đa giấy làm ra sẽ có độ chặt tốt và trong như giấy sáp, glassine.

Phụ gia: Các loại phụ gia được thêm vào trong suốt quá trình tinh luyện làm thay đổi các tính chất của giấy. Phết hồ, thường là colofan hay các polymer tổng hợp làm giấy có khả năng chống thấm nước, rất quan trọng cho các loại giấy viết hay giấy in offset. Các chất như: CaCO3, TiO2 cải thiện tính mềm mại, độ xuyên thấu, độ sáng của giấy. Hỗn hợp của sợi cellulose, nước và chất phụ gia gọi là furnish.

Sau khi tinh luyện bột giấy, giấy được tạo thành từ một trong hai loại máy. Máy xeo giấy dùng hai chuyển động là chuyển động tịnh tiến và chuyển động rung lắc, giấy được hình thành trên lưới vô tận. Furnish ở trên lưới, và nước sẽ được tách khỏi lớp cellulose và phụ gia bằng trục tách nước. Trong quy trình cylinder mold, lưới sẽ được bao phủ một trục quay trong một bể chứa bột giấy. nước sẽ được làm cho rơi tự do hay là hút ra khỏi mặt ngoài trục và giữ lại lớp thớ giấy.

Công nghệ làm giấy bảo mật.

Giấy dùng cho in bảo mật được chế tạo bằng sự kết hợp có một không hai từ hai máy tinh chế góc hẹp và góc rộng. Quá trình tinh chế sẽ tạo ra sợi cellulose có độ dài như ý, làm cho giấy có độ liên kết lớn và các hình mờ dễ dàng nhìn thấy.

Cylinder mold.

Giấy bảo mật được làm từ loại máy Cylinder mold. Trên ống được bao một lưới thép và được nhúng một phần vào và xoay trong máng đựng hỗn hợp furnish. Môi trường chân không của trục đã hút hỗn hợp furnish qua tấm lưới, và để lại một lớp sợi cellulose bên ngoài trục. Khi trục xoay, lớp giấy vừa mới hình thành sẽ được loại bỏ phần nước dư. Lớp giấy mới được tách ra khỏi lưới và chuyển đến phần in nơi các lớp giấy được sấy khô và chuẩn bị cho các quy trình khác.

Tác nhân làm sáng: Không giống như những các loại giấy thường khác, các loại giấy bảo mật phải không bị bức xạ UV tác động hay không có tác nhân làm sáng. Các tác nhân làm sáng hấp thụ tia UV và phát ra loại ánh sáng khả kiến nằm trong vùng quang phổ màu blue, các tác nhân làm sáng này làm cho giấy thường sáng hơn và trung tính hơn với màu sắc. Giấy không bị ảnh hưởng bởi bức xạ UV cải thiện chức năng bảo mật do hai lý do: (1) cho phép dùng mực huỳnh quang như một chức năng bảo mật, sự xuất hiện của nó sẽ bị thay đổi bởi loại giấy có tác nhân làm sáng, (2) không phát huỳnh quang dưới bức xạ UV như các sản phẩm giả bằng các loại giấy thường. Bởi vậy, hầu hết các loại giấy in bảo mật đều dùng loại không tráng phủ, do các loại được tráng phủ bình thường chứa đựng tác nhân làm sáng.

Hình mờ được làm bằng máy Cylinder mold: Một hình mờ (có thể là một hình chân dung hay một dấu hiệu nào đó…) được tạo ra trên giấy bằng cách biến đổi độ dày các sợi cellulose, như vậy giấy sẽ có tính trong mờ ở những vị trí khác nhau. Hình mờ là một chi tiết bảo mật được nhìn thấy bằng cách giữ tờ giấy trước nguồn sáng (h. 4-5).

Những hình mờ được tạo ra bằng cách thay đổi độ dày của giấy. Khi có ánh sáng truyền qua, những chỗ dày không cho ánh sáng qua nhiều ta sẽ thấy những đường nét đó đậm hơn và ngược lại.

Những hình mờ có chất lượng tốt nhất được sản xuất bằng máy làm giấy Cylinder mold. Các đường nét được chạm nổi trên tấm lưới mảnh để làm giấy như ở trên. Ở những chỗ lưới bị khắc lõm thì có nhiều sợi đọng lại làm tăng độ dày của giấy ở các vị trí đó, và ngược lại. Thay đổi độ cao và độ sâu của hình mờ trên lưới, làm gia tăng khả năng tái tạo đầy đủ các chi tiết của hình, tạo ra hình ảnh ba chiều khó làm giả.

Hầu hết các loại giấy thường sẽ được sản xuất trên máy Fourdriner. Các hình mờ được làm bằng một loại trục bọc lưới sắt, trục đó có nhiệm vụ truyền hình mờ lên giấy như một cách đóng dấu. Như vậy khoảng phục chế của hình ảnh có khynh hướng bị giới hạn và thiếu chi tiết. Bọn làm giả có khả năng dùng các kỹ thuật in để làm giả. Giấy làm bằng loại máy Cylinder mold chỉ có thể tìm thấy ở một số ít nhà máy làm giấy bảo mật trên thế giới. Do đó, hầu như không thể làm được loại giấy này cho mục đích làm giả.

Hình mờ làm bằng phương pháp này có khả năng định vị chính xác và cố dịnh ở một vị trí hơn loại làm bằng máy thường. Máy Cylinder mold có thể làm giấy dạng cuộn như thế thì các hình mờ sẽ được định vi cố định tại một vị trí trên tài liệu.

Hình mờ dù là một đặc điểm bảo mật lâu đời nhất nhưng nó vẫn là đặc điểm có hiệu quả nhất vì công nghệ không phổ biến.

Chỉ bảo mật

Chỉ bảo mật là các băng giấy mảnh hay các loại chất liệu khác được kết hợp vào giấy trong qúa trình chế tạo. Các sợi chỉ thường được phân bố rải rác khắp nơi trên giấy, hay có thể theo từng nhóm. Các sợi này được làm với độ dày đã được xác định, những độ dài riêng, các màu đặc biệt, và với một tần suất xuất hiện riêng.

Chỉ bảo mật được kết hợp thành công vào giấy bạc năm 1939 giữa sự kết hợp của công ty Poltral Paper và một ngân hàng của Anh để chống lại âm mưu lũng đoạn nền kinh tế của bọn Đức. Từ đó chỉ bảo mật được dùng rộng rãi vào việc làm tiền của các quốc gia trên thế giới.

Chỉ bảo mật có thể được nhìn thấy với nhiều màu khác nhau dưới ánh sáng bình thường nhưng nó sẽ phát huỳnh quang khi rọi nguồn sáng UV vào. Như vậy, chỉ bảo mật có được hai đặc tính của hai cách bảo mật cơ bản. Chúng có rất nhiều màu sắc, có thể được đọc bằng máy hay dùng để mã hoá lam chức năng nhận dạng về mặt pháp lý.

Chỉ bảo mật dùng bổ sung cho hình mờ. Chúng xuất hiện tinh vi, mờ ảo dưới hiệu ứng của nguồn sáng. Chỉ bảo mật chống lại các máy photo màu.

Hầu hết các loại chỉ bảo mật được sản xuất bằng các loại màng polyester đã qua tráng phủ. Sau đó, được chia thành những băng nhỏ có bề rộng từ 0.5-1.6 mm và kết hợp vào giấy khi làm giấy. Sau đây là một số loại chỉ bảo mật được dùng trong công nghệ làm giấy bảo mật:

  • Chỉ bọc kim loại: Đây là một trong những loại chỉ bảo mật đơn giản có hiệu quả nhất. Chỉ được bọc bằng loại nhôm có khả năng phản xạ cao kết quả ta không thể nhìn thấy dưới ánh sáng phản xạ lại mà chỉ có thể nhìn thấy những lằn màu đen khi ánh sáng chiếu qua.

Dòng chữ nhỏ được in trên một băng nhỏ như là tên của nhà phân phối, chúng có thể được kiểm tra bằng kính lúp. Nó có khả năng thể hiện hình ảnh được in trên các sợi chỉ có bề ngang 1mm cho phép mắt thường có thể nhận biết. Các máy photo màu thế hệ mới nhất có độ phân giải cao có khả năng tái tạo lại.Đây là thời điểm phát triển của Cleartext.

  • Cleartext: là loại chỉ bảo mật được cấp bằng sáng chế của hãng Portals Paper, có hiệu quả đặc biệt ở những lời ghi chú dễ dàng đọc được khi được ánh sáng chiếu xuyên qua, những chữ đó được tạo ra không phải do mực mà do sợi chỉ bọc kim loại đó được móc trắng hay nói cách khác là ở các từ thì chỉ không được bọc kim loại. Do đó dễ đọc được những chi tiết khi có ánh sáng đi qua. Đây là một đặc điểm mà máy photo không thể giả lập được. Chúng có thể phát ra nhiều màu hay một màu.
  • Windowed thread: Loại chỉ bảo mật này dùng kỹ thuật của sổ mờ được cấp bằng sáng chế. Phương pháp này đưa lên mặt trên tài liệu mật một khung cửa sổ đặc biệt và các chi tiết kèm theo tại vị trí đã được xác định. Loại này được sử dụng trong hơn 70 đồng tiền. Một trong những đặc điểm quan trọng nhất là chúng có tính liên tục, như vậy nếu những chữ không bọc kim loại liên tục thì trên phần của sổ đó cũng liên tục, đây là chi tiết rất khó giả. Loại này cũng có thể dùng trên các bề mặt đặc biệt như hình nổi, hay có màu sắc thay đổi có hoặc không có bọc kim loại.

Loại này có lẽ là loại bảo mật cao cấp nhất trong các loại chỉ bảo mật. Dưới ánh sáng phản xạnhững khung cửa sổ của vật liệu có tính phản xạ cao sẽ được nhìn thấy rõ ràng trên bề mặt giấy. loại chỉ thật có thể nhìn thấy rõ ràng vàtoàn bộ phần liên tục trên giấy khi có ánh sáng truyền qua.

  • Holographic windowed thread: là cách dùng loại chỉ được bọc kim loại. Với loại chỉ này, các loại vật liệu được dùng có tính chống giả rất đặc biệt. Cũng có thể kết hợp Cleartext.
  • Thermotext: sản phẩm đã đăng ký của hãng Portal Paper, chỉ được in lên những chữ có màu hay có thể là hình ảnh sau đó được phủ lên một lớp màu biến đổi theo nhiệt độ có màu cùng với chữ. Khi không hoạt động, loại chỉ này giống loại chỉ có in màu bình thường nhưng khi được làm ấm lên thì lớp mặt nạ nhiệt sẽ để lộ những chữ bên dưới. Có thể tìm thấy nhiều trạng thái màu sắc khi nhiệt độ thay đổi từ -10 đến 40oC.

Nhiệt độ hoạt động phải phù hợp với các màu khác nhau, chấp nhận các kiểu kích hoạt như: làm ấm bằng tay, bằng lò sưởi, hay các dụng cụ do nhà sản xuất cung cấp.

  • Planchettes: những dấu tròn nhỏ xíu (đường kính 0.055 in) được đưa vào trong quá trình làm giấy không thể sao lại bằng máy scanner, máy photo hay máy in. (hình 4-6; 4.7) gồm hai loại phát huỳnh quang và không phát huỳnh quang.
  • Loại không phát huỳnh quang khác biệt với bề mặt giấy và không thể lấy ra nên khi phân biệt sản phẩm giả sẽ là điểm
    nhận dạng.
  • Loại thay đổi màu sắc khi có phản ứng hoá học với dung dịch kiềm.
  • Loại thay đổi màu sắc khi có tác động của nhiệt độ.
  • Sự thay đổi màu sắc do phản ứng hóa học: Kết hợp đặc tính nhạy cảm với các chất hoá học vào các loại tài liệu để chống lại việc sử dụng các ứng dụng hoá học vào để làm giả. Bọn tội phạm muốn thay đổi hoặc loại bỏ những thông tin trên tài liệu sẽ sử dụng các loại hoá chất như: dầu thắng, xăng, chất làm mát động cơ, nước rửa kính, chúng có khả năng loại bỏ các thông tin được in rất dễ dàng.

Tài liệu được bảo vệ sẽ phản ứng với các dung môi phân cực (cồn, nước …), không phân cực (toluen, benzen, aceton), các loại acid (HCl, H2SO4, HNO3), các loại kiềm (NH4OH, potasium hidroxit) và các tác nhân oxi hoá (Cl2, H2O2).

  • Xử lý laser: bề mặt ở cả hai mặt tờ giấy, làm tăng khả năng bám dính của loại mực toner trong in laser. Nhiệt độ trong suốt quá trình in laser tạo ra một phản ứng hoá học đặc biệt làm mực chảy ra trên giấy. Phương pháp này dùng để bảo vệ tài liệu được in laser không bị làm giả hay thay đổi thông tin bằng cách cạo sửa.

Loại giấy có hình mờ làm theo phương pháp Cylinder mold khi được thêm vào phương pháp giúp mực toner bám chắc như trên được gọi là Securitext. Điều đáng chú ý là sự liên kết giữa giấy và loại mực toner. Các dữ liệu được bảo vệ tuyệt vời với loại này, rất khó để làm giả hay thay đổi thông tin vì có thể nhận ra thật dễ dàng hàng giả khi cố cạo sửa ngay cả bằng dao mổ.

  • Furnish: Có thể thay đổi các đặc tính cấu tạo nên giấy để tạo ra loại giấy có có tính rất dễ bị phá vỡ hay những vùng có hình mờ sẽ bị rách khi có tác động cơ học để cạo sửa.

Các chức năng pháp lý.

Người ta nhận biết sự có mặt của Taggant bằng cách lấy một mẫu giấy nhỏ cắt ra từ tài liệu, rồi cho một loại chất lỏng chảy ở một mặt của mẫu giấy để xác minh. Toàn bộ việc kiểm tra mất khoảng 10 phút đối với người đã được đào tạo cơ bản. Các chức năng pháp lý này được tạo ra để những người đã biết kiểm tra, và các điều khoản bí mật giữa người đặt hàng và nhà sản xuất. Nó sẽ chứng minh công nghệ thật và các dấu hiệu để bọn tội phạm không thể chối cãi.
Tóm lại, điều quan trọng nhất của các sản phẩm được bảo vệ là các đặc tính cấu tạo nên chúng phải hoạt động tốt với nhau và không cản trở nhau. Ví dụ, người thiết kế phải chắc chắn rằng các tác nhân nhạy với các chất hoá học sẽ không ảnh hưởng đến việc giữ mực của giấy và ngược lại, hay không được gây trở ngại với các kỹ thuật in. ?

118 bình luận

Bình luận